Ảnh minh họa.
1. Quy định của pháp luật về việc giải quyết tranh chấp nuôi con dưới 36 tháng tuổi
Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn vợ, chồng có quyền thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con; nghĩa vụ. Trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi. Vì vậy, theo quy định của pháp luật, khi giải quyết ly hôn, Toà án giao con dưới 36 tháng tuổi cho người mẹ hoặc người cha trực tiếp nuôi trong hai trường hợp sau:
1.1. Trường hợp giao con dưới 36 tháng tuổi cho người mẹ trực tiếp nuôi
Tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Từ quy định này thấy rằng khi giải quyết vụ án hôn nhân có tranh chấp về việc nuôi con thì Toà án xem xét giải quyết giao cho người chồng hoặc người vợ trực tiếp nuôi con trên cơ sở có xem xét đến điều kiện về kinh tế, điều kiện chăm sóc, ăn , ở, học hành..., của con sao cho đảm quyền lợi mọi mặt cho con. Tuy nhiên, đối với trường hợp tranh chấp về nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định rằng người con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Quy định này đã trở thành một căn cứ pháp lý dường như mang tính bắt buộc phải thực hiện khi Toà án giải quyết việc nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Do đó, các điều kiện về kinh tế, điều kiện chăm sóc, ăn, ở, học hành..., của con trong trường hợp này ít được được Tòa án xem xét đến. Quy định này xuất phát từ việc đảm bảo quyền lợi của con, vì giai đoạn con dưới 36 tháng tuổi rất cần sự chăm sóc chu đáo của người mẹ.
1.2. Trường hợp giao con dưới 36 tháng tuổi cho người cha trực tiếp nuôi
Về nguyên tắc con dưới 36 tháng tuổi sẽ giao cho người mẹ trực tiếp nuôi khi vợ, chồng ly hôn. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì Toà án có quyền giao con cho người cha trực tiếp nuôi con dưới 36 tháng tuổi nếu như người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Vấn đề cha mẹ có thỏa thuận giao con dưới 36 tháng tuổi cho người cha trực tiếp nuôi miễn là sự thỏa thuận này phù hợp với lợi ích của con thì đã rõ. Tuy nhiên, trong trường hợp nào thì xác định người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì hiện nay pháp luật không có quy định hoặc hướng dẫn cụ thể, thường phụ thuộc vào nhận định, đánh giá của Toà án tuỳ thuộc vào từng vụ án cụ thể. Thông thường việc đánh giá điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con dựa vào các yếu tố sau: Công việc hiện tại của người mẹ có ổn định không, thu nhập hàng tháng của người mẹ ngoài nhu cầu chi tiêu của mẹ, còn lại có đảm bảo nuôi con không, chỗ ở hiện nay của người mẹ như thế nào: ở nhà riêng hay ở nhờ nhà người thân hay ở nhà trọ, nhà thuê; thời gian làm việc của người mẹ như thế nào có đảm bảo thời gian để chăm sóc con không; người mẹ có con bị ngược đãi, bạo hành hay không và một số điều kiện khác nếu Toà án thấy rằng cần thiết khi xem xét, đánh giá vấn đề này.
Ngoài các trường hợp nêu trên thì Án lệ số 54/20202/AL được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 07 tháng 9 năm 2022 và được công bố theo Quyết định số 323/QĐ-CA ngày 14 tháng 10 năm 2022 của Chánh án TAND Tối cao có nội dung án lệ như sau: “Quá trình giải quyết vụ án chị Phạm Thị Kiều K. và anh Nguyễn Hữu P. đều có nguyện vọng xin được nuôi cháu Nguyễn Đắc T., sinh ngày 30/11/2016. Khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Trong vụ án này, chỉ vì mâu thuẫn vợ chồng, chị Phạm Thị Kiều K. tự ý về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, bỏ lại cháu T. mới được 04 tháng tuổi cho anh Nguyễn Hữu P. nuôi dưỡng. Tại các Biên bản xác minh cùng ngày 23/01/2018 (bút lục số 19, 20, 24), Ban tự quản thôn và Chi hội phụ nữ thôn H, xã E, huyện K xác nhận: “Anh Nguyễn Hữu P. nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Nguyễn Đắc T. rất tốt. Anh P. có việc làm tại Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ N, thu nhập ổn định, hoàn toàn đủ điều kiện để nuôi cháu T.”. Mặc dù, khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Con dưới 36 tháng tuổi phải giao cho mẹ trực tiếp nuôi...”, nhưng chị K. đã không nuôi cháu T. từ khi cháu được 04 tháng tuổi. Hiện tại, cháu T. đã quen với điều kiện, môi trường sống và được anh P. nuôi dưỡng, chăm sóc đảm bảo trong điều kiện tốt nhất; nếu giao cháu T. cho chị K. nuôi dưỡng sẽ gây sự xáo trộn, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cháu. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét một cách toàn diện, tiếp tục giao cháu T. cho anh P. trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm giao cháu T. cho chị K. nuôi dưỡng là không phù hợp, chưa xem xét đầy đủ đến quyền và lợi ích hợp pháp về mọi mặt của cháu T”. Theo Án lệ này, trong vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp về quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người mẹ tự ý bỏ đi từ khi con còn rất nhỏ, không quan tâm đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; người con được người cha nuôi dưỡng, chăm sóc trong điều kiện tốt và đã quen với điều kiện, môi trường sống đó. Trường hợp này, Tòa án phải tiếp tục giao con dưới 36 tháng tuổi cho người cha trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc".
2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về nuôi con dưới 36 tháng tuổi tại Toà án
Mặc dù khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định rõ về trường hợp giải quyết nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi vợ,chồng ly hôn nhưng việc áp dụng quy định này trong thực tiễn giải quyết tranh chấp nuôi con tại các Toà án hiện nay là khác nhau.
Có Toà án áp dụng đúng quy định của pháp luật giải quyết giao con dưới 36 tháng tuổi cho người mẹ trực tiếp nuôi. Đơn cử như Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 08/2022/HNGĐ-ST ngày 10/01/2022 của TAND huyện CM, thành phố HN có nhận định như sau: “Về con chung: Chị T. và anh N. xác nhận có 01 con chung là cháu Nguyễn Quỳnh G., sinh ngày 13/7/2019. Hiện đang ở với chị T., khi ly hôn chị T. và anh N. đều có nguyện vọng nuôi cháu G. Xét việc xin nuôi con chung thấy: Hiện cháu G. dưới 36 tháng tuổi căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con….”. Chị T. có công việc và thu nhập ổn định, do vậy cần giao cháu G. cho chị T. tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Anh N. có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở” [1].
Tuy nhiên, có Toà án giải quyết không giao con dưới 36 tháng tuổi cho người mẹ trực tiếp nuôi mà giao con cho người cha trực tiếp nuôi, khi xem xét đến một số yếu tố có liên quan. Đơn cử theo như Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 31/2017/HNGĐ-PT ngày 12/7/2017 của TAND tỉnh CM khi giải quyết yêu cầu kháng cáo về việc nuôi con là cháu Trần K.A., sinh ngày 26/6/2014 (thời điểm này cháu A. dưới 36 tháng tuổi) của nguyên đơn là chị C. có nhận định như sau: “Ngoài ra, tại phiên tòa chị C. xác định chị đang sống chung với cha mẹ tại ấp TT, xã TH, huyện CN, tỉnh Cà Mau; chị đang làm việc tại Ngân hàng PĐ và có thu nhập cao nên chị sẽ tạo điều kiện cho cháu A. học tại Cà Mau, nếu cháu A. học ở quê thì điều kiện đi lại sẽ khó khăn. Anh T. xác định hiện cháu A. đang sống chung với anh, gia đình anh cũng gần chợ và trường học nên thuận lợi cho việc học tập và sinh sống của cháu A. Xét điều kiện thực tế của chị C. và anh T., thì anh chị đều có điều kiện nuôi cháu A., nhưng từ khi sinh ra cho đến nay cháu A. vẫn sống ổn định tại gia đình anh T., hơn nữa khi chị C. và anh T. ly thân thì cháu A. vẫn do anh T. và gia đình anh T. chăm sóc cho đến nay. Chị C. không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh anh T. không đủ điều kiện nuôi cháu A., hơn nữa tại thời điểm xét xử phúc thẩm cháu A. đủ 36 tháng tuổi. Do đó, để đảm bảo cuộc sống ổn định về tinh thần, tâm lý và đảm bảo quyền lợi cho cháu A. theo quy định của pháp luật, cần thiết tiếp tục giao con cho anh T. nuôi dưỡng như án sơ thẩm đã tuyên buộc là phù hợp”[2]. Từ đó, Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận kháng cáo của chị C.
Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp về nuôi con dưới 36 tháng tuổi tại các Toà án mà tác giả đơn cử nêu cho thấy việc nhận thức và áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 hiện nay vẫn còn khác nhau nên cần có sự hướng dẫn áp dụng thống nhất trong thời gian tới.
3. Vướng mắc và kiến nghị
Hiện nay các vụ án ly hôn có tranh chấp về việc nuôi con dưới 36 tháng tuổi không phải là ít. Trong đó, có nhiều trường hợp người cha giành quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong những trường hợp như vậy, Toà án thường xem xét, đánh giá cho rằng người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Tuy nhiên, do pháp luật không có quy định hoặc hướng dẫn cụ thể thế nào là “người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” nên quyết định giải quyết nuôi con của Toà án trong các trường hợp này chưa đủ căn cứ pháp lý nên sức thuyết phục chưa cao. Từ đó dẫn đến việc những tình huống pháp lý tương tự nhưng quyết định của Toà án lại khác nhau. Do đó, tác giải kiến nghị cần xem xét quy định, hướng dẫn, giải thích rõ thế nào là “trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con dưới 36 tháng tuổi”.
Theo ý kiến của tác giả việc quy định hoặc hướng dẫn trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con dưới 36 tháng tuổi cần liệt kê một số điều kiện cụ thể và thứ tự ưu tiên xem xét các điều kiện này. Chẳng hạn như: Điều kiện thu nhập, chỗ ở, công việc, thời gian chăm sóc con.
Bên cạnh đó, trong thời gian quan nhiều vụ án ly hôn có tranh chấp về nuôi con dưới 36 tháng tuổi nhưng người mẹ tự ý bỏ đi từ khi con còn rất nhỏ, không quan tâm đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Tuy nhiên. Do trường hợp người mẹ tự ý bỏ đi từ khi con còn rất nhỏ, không quan tâm đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con không phải là trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con dưới 36 tháng tuổi theo quy định tại Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Án lệ số 54/20202/AL đã tháo gỡ được vướng mắc của các Toà án. Tuy nhiên theo quan điểm của tác giả, khi giải quyết vụ án ly hôn có tình huống pháp lý tương tự như tình huống trong Án lệ số 54/2022/AL thì có cần phải xem xét đến nguyên nhân, hoàn cảnh việc người mẹ phải bỏ đi từ khi con còn rất nhỏ, việc người mẹ không quan tâm đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con và độ tuổi của con thời điểm người mẹ bỏ đi là mấy tháng hoặc mấy tuổi không. Bởi vì thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn có tranh chấp việc nuôi con dưới 36 tháng tuổi có trường hợp người mẹ tự bỏ đi khi con còn rất nhỏ và không trực tiếp thăm hỏi, quan tâm đến con cho đến khi vụ án ly hôn được Tòa án thụ lý giải quyết nhưng cũng có trường hợp người mẹ bị buộc phải bị bời người chồng hoặc người thân của người chồng.
Bên cạnh đó, tình tiết “khi con còn rất nhỏ” cũng cần phải tiếp tục làm rõ thêm. Bởi vì tình huống trong án lệ là người con mới 04 tháng tuổi nhưng tình huống tương tự thời điểm người mẹ bỏ đi khi người con 10, 11 tháng tuổi hoặc hơn 01 tuổi thì có thể xem xét áp dụng Án lệ số 54/2022/AL để giải quyết hay không. Như vậy, việc xác định thời điểm người mẹ tự ý bỏ đi “khi người con còn rất nhỏ” là thời điểm người con dưới 12 tháng tuổi là phù hợp nhất. Bởi vì thời điểm mọi trẻ em rất cần sự chăm sóc của người mẹ. Nếu thời điểm người mẹ tự ý bỏ đi thì không xem xét áp dụng Án lệ số 54/2022/AL mà việc giao con cho người chồng hoặc người mẹ nuôi là căn cứ vào các điều kiện khác theo quy định của pháp luật [3]. Do đó, thời gian tới tác giả kiến nghị cũng cần xem xét hướng dẫn thêm vấn đề đã nêu liên quan đến Án lệ số 54/2022/AL mà tác giả đã nêu.
[1] https://lawnet.vn/judgment/ban-an/ban-an-ve-tranh-chap-ly-hon-nuoi-con-so-182022hngdst-247851 [2] https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-312017hngdpt-ngay-12072017-ve-tranh-chap-ly-hon-nuoi-con-25683 [3] Dương Tấn Thanh, Bình luận án lệ số 54/2022/AL, Tạp chí Toà án nhân dân điện tử, https://tapchitoaan.vn/binh-luan-an-le-so-542022al7362.html, truy cập ngày 12/11/2022. |
DƯƠNG TẤN THANH
Phó Chánh án TAND thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh
Học viên Cao học Luật, Trường Đại học Trà Vinh