Ảnh minh họa.
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị ban hành theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 cho thấy đã lấy vai trò và vị trí của Luật sư là trung tâm của quá trình cải cách tư pháp. Thể chế hóa Nghị quyết của Bộ Chính trị, Luật Luật sư năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012 đã quy định về hoạt động hành nghề của Luật sư góp phần bảo vệ công lý, xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. “Hoạt động nghề nghiệp của Luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (2).
1. Luật sư là một chức danh tư pháp được pháp luật nhìn nhận ngang bằng các chức danh tư pháp khác như: Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán. Chính vì vậy, Bộ luật Hình sự 2015 có quy định hành vi của Luật sư đánh tráo chứng cứ, gian dối trong cung cấp chứng cứ làm sai lệch hồ sơ vụ án cũng là hành vi xâm phạm đến hoạt động tư pháp được pháp luật hình sự bảo vệ. Tuy nhiên, Luật sư không phải là người tiến hành tố tụng, chỉ là người tham gia tố tụng để bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác trong vụ án hình sự. Tham gia tố tụng trong vụ án hình sự là một trong những chức năng cung ứng dịch vụ pháp lý của Luật sư, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định việc Luật sư tham gia tố tụng với vai trò là người bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các đương sự khác trong vụ án hình sự. Chiến lược cải cách tư pháp được Bộ Chính trị ban hành, thể chế hóa trong các Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Luật sư và các văn bản pháp luật chuyên ngành đều tập trung đến hoạt động của Luật sư là trọng tâm, tiếng nói của Luật sư là phản biện xã hội dựa trên những chứng cứ pháp lý được thể hiện thông qua quá trình tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự. Mục tiêu quan trọng của hoạt động hành nghề Luật sư trong tố tụng hình sự đó là tránh tình trạng oan sai, bức cung, nhục hình để làm oan người vô tội.
Khoản 1 Điều 22 Luật Luật sư quy định, Luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự. Khi tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, Luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự và Luật Luật sư. Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định Luật sư có quyền tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKS có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
2. Tranh tụng là một quyền dân chủ được xác định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, hoạt động tranh tụng được diễn ra trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Quyền tranh tụng được thể hiện thông qua việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm sáng tỏ sự thật khách quan. Luật sư tuy không phải là người tiến hành tố tụng, nhưng Luật sư có quyền thu thập chứng cứ, quyền thu thập chứng cứ là quyền của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng để tiến hành giải quyết vụ án và người bào chữa. Luật tố tụng cho phép Luật sư được quyền thu thập, cung cấp chứng cứ để bào chữa và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo. Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 đã quy định Luật sư có quyền được “đánh giá chứng cứ”, quyền được “yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án”.
“Tranh tụng dân chủ và bình đẳng trước tòa” là nguyên tắc thể hiện bước tiến lớn của quá trình cải cách tư pháp, bản án của tòa phải dựa trên những chứng cứ được tranh luận. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án đều được tranh luận tại phiên tòa. Theo TS Hoàng Thị Quỳnh Chi trong bài viết “Bàn về tranh tụng trong tố tụng hình sự”, chế định tranh tụng trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật ghi nhận các nguyên tắc tranh tụng, trình tự thủ tục thực hiện tranh tụng tại phiên tòa, xác định trách nhiệm của các chủ thể tranh tụng và các chế tài xử lý vi phạm thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của tố tụng hình sự, chi phối và định hướng mọi hoạt động và hành vi tố tụng của các chủ thể nhằm hướng tới mục tiêu đảm bảo cho quá trình xét xử công bằng, minh bạch và công khai, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được pháp luật công nhận và bảo vệ, đồng thời xác định trách nhiệm của các bên tham gia tố tụng phải triệt để tuân thủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình tham gia tố tụng (3).
3. Xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với Luật sư, Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khẳng định Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức Luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức Luật sư đối với thành viên của mình. Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
Một thành quả rõ nét trong quá trình đưa Nghị quyết số 49-NQ/TW đi vào đời sống chính là vai trò của Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong việc tham gia góp ý, xây dựng hoàn thiện pháp luật, trong đó có việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, đề xuất và xây dựng được Chương V mới về bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; chuyển tải và ghi nhận những nguyên tắc cơ bản mới như suy đoán vô tội, tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; đơn giản hóa thủ tục đăng ký tham gia tố tụng, tạo vị thế bình đẳng về chỗ ngồi với đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa trong Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Thực tiễn tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, nhất là các vụ đại án đặt dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng, chống tham nhũng đã khẳng định vai trò quan trọng, vị thế bình đẳng trong thực hiện chức năng bào chữa là một trong ba chức năng cơ bản, tạo thế kiềng ba chân, phản ánh trong một chừng mực nhất định bản chất dân chủ trong tố tụng hình sự Việt Nam (4).
4. Hoàn thiện pháp luật về hành nghề Luật sư đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động Luật sư đạt được nhiều kết quả, pháp luật về hành nghề Luật sư tiếp tục được hoàn thiện. Hoạt động của Luật sư có quan hệ tác động trực tiếp đến chất lượng xét xử của tòa án, góp phần nâng cao chất lượng hệ thống tư pháp. Hoạt động Luật sư là công cụ hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực hành nghề Luật sư được chú trọng, đến nay cơ bản được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho việc phát triển các dịch vụ pháp lý. Hoạt động Luật sư được xã hội hóa, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; đội ngũ Luật sư ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng. Công tác phối hợp với Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong quản lý hành nghề Luật sư được tăng cường. Hiện nay, cả nước có hơn 16.500 Luật sư đang hoạt động tại 4.758 tổ chức hành nghề Luật sư.
Từ năm 2016 đến nay, trung bình mỗi năm các tổ chức hành nghề Luật sư đã thực hiện trên 125.000 vụ việc, nộp thuế trên 200 tỷ đồng (5). Trong nhiệm kỳ lần thứ XIII, Đảng nhấn mạnh giải pháp “Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý của người dân và doanh nghiệp. Phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, các hoạt động Luật sư, tư vấn pháp luật, bổ trợ tư pháp và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án… Tăng cường công tác tiếp công dân, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân” (6).
Hoàn thiện cơ chế chính sách và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Luật sư, bổ trợ tư pháp. Phát triển đội ngũ Luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn vững vàng. Xây dựng cơ chế khuyến khích Luật sư tham gia trợ giúp pháp lý, góp phần bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự, góp phần xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
[1] Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. [2] Điều 3 Luật Luật sư. [3] Xem https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/ban-ve-tranh-tung-trong-to-tung-hinh-su-d10-t2851.html?fbclid=IwAR1WfdesdMsn3vZPTf_-96tYxs7XfghLLZftbmuTQ_x3L7zDPi7PfRg39O8, truy cập 21/5/2021. [4] Xem https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/nang-cao-hieu-qua-hoat-dong-luat-su-472901/?fbclid=IwAR2ywyAFS3miWUlo5iUeCgyvKnlbF_OTr0sMQwwF15FAlyzkBbrZkaK0cj4, truy cập 21/5/2021. [5] Xem http://baochinhphu.vn/Phap-luat/Nhieu-ket-qua-tich-cuc-trong-hoat-dong-bo-tro-tu-phap/431986.vgp?fbclid=IwAR1c-Dh_BGWdZy9SSG-VEAv4MMIyJdfyJA3EKYSgn72SuMR8CvRSbyeIQGQ, truy cập 21/5/2021. [6] Xem https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/202107/tang-cuong-hoat-dong-cai-cach-tu-phap-duoi-su-lanh-dao-cua-dang-cong-san-viet-nam-gop-phan-thuc-hien-thang-loi-nghi-quyet-dai-hoi-dang-lan-thu-xiii-309746/, truy cập 04/7/2021. |
NCS.ThS TÔN THẤT NHÂN TƯỚC
Khoa Luật kinh tế - Trường Đại học Luật - Đại học Huế