Ảnh minh họa.
Theo Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết, căn cứ khoản 2 Điều 82 Luật Đất đai 2024 thì trường hợp người sử dụng đất giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất và có đơn tự nguyện trả lại đất cũng là một trong các trường hợp nhà nước thực hiện thu hồi đất.
Trước ngày 01/8/2024, khi Luật đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn còn hiệu lực, thì căn cứ vào khoản 3 Điều 18a Nghị định 01/2017/NĐ-CP, trường hợp người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất mà đủ điều kiện được bồi thường thì được trả lại giá trị quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, từ 01/8/2024, theo khoản 3 Điều 101 Luật Đất đai 2024 thì đất thu hồi do người sử dụng đất tự nguyện trả thuộc trường hợp không được bồi thường về đất (trả lại giá trị quyền sử dụng đất).
Cũng theo khoản 4 Điều 35 Nghị định 102/2024/NĐ-CP có quy định, đối với trường hợp người sử dụng đất giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất và có đơn tự nguyện trả lại đất quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật Đất đai thì Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi đất chỉ xem xét trả lại giá trị tài sản gắn liền với đất nếu xét thấy việc thu hồi đất là cần thiết, không gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước, trật tự công cộng và người sử dụng đất có đơn đề nghị được Nhà nước trả lại giá trị tài sản gắn liền với đất. Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi đất thành lập Hội đồng định giá để xác định giá trị còn lại của tài sản và hoàn trả cho người trả lại đất.
Như vậy, UBND có thẩm quyền sẽ xem xét hoàn trả giá trị tài sản trên đất nếu việc thu hồi đất đáp ứng 02 điều kiện:
Thứ nhất, việc thu hồi đất là cần thiết.
Thứ hai, việc thu hồi đất không gây ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, trật tự công cộng.
Tuy nhiên, cần lưu ý việc hoàn trả giá trị tài sản trên đất không phải là quy định bắt buộc cơ quan có thẩm quyền thực hiện, mà người sử dụng đất phải làm đơn đề nghị hoàn trả giá trị tài sản.
Sau đó, UBND sẽ thành lập Hội đồng định giá để xác định giá trị còn lại của tài sản và hoàn trả cho người trả lại đất.
TRẦN VŨ