Ảnh minh họa.
Ở Việt Nam, đất đai là một loại tài sản đặc biệt, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai. Việc sử dụng đất là vấn đề thường hay phát sinh tranh chấp trên thực tế.
Đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý, quyền sử dụng và những lợi ích phát sinh từ quá trình sử dụng loại tài sản đặc biệt này. Tranh chấp đất đai luôn gắn liền với quá trình sử dụng đất của các chủ thể nên không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước.
Trong quá trình thực hiện Luật Đất đai năm 2013, các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai ít nhiều đã bộc lộ những điểm bất cập, cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu sử dụng đất và làm tăng hiệu quả quản lý đất đai của các cơ quan nhà nước.
Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay
Các dạng tranh chấp đất đai
Do đặc thù về điều kiện lịch sử, địa lý của Việt Nam nên các tranh chấp về đất đai cũng xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau và có nhiều loại tranh chấp khác nhau.
Trên thực tế chúng ta thường thấy có 02 loại tranh chấp, đó là tranh chấp đất đai và tranh chấp liên quan đến đất đai. Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”, tức là xác định xem ai được quyền sử dụng đất, được quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai 2013. Tranh chấp liên quan đến đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ dân sự liên quan đến đất đai như giao dịch, di sản thừa kế, tài sản chung là quyền sử dụng đất. Sở dĩ cần phân biệt như vậy là để xác định một cách chính xác trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai được điều chỉnh bởi Luật Đất đai 2013.
Tranh chấp đất đai thường có các dạng sau: (i) tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất (bao gồm cả tranh chấp đòi lại đất, tài sản gắn liền với đất của người thân trong những giai đoạn trước đây mà qua nhiều lần thay đổi chính sách ruộng đất đã được chia cấp cho người khác); (ii) tranh chấp ranh giới thửa đất giữa các chủ thể sử dụng đất liền kề; (iii) tranh chấp lối đi chung. Trong các dạng tranh chấp đất đai thì tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất là phổ biến, phức tạp và còn nhiều khó khăn, vì vậy phạm vi bài viết này chỉ để cập đến giải quyết tranh chấp đất đai dạng này.
Sự ảnh hưởng của hoạt động quản lý đất đai đến việc giải quyết tranh chấp đất đai
Từ thực tế giải quyết tranh chấp đất đai cho thấy, có rất nhiều nguyên nhân gây khó khăn cho quá trình giải quyết tranh chấp, một trong những nguyên nhân đó phát sinh từ hoạt động quản lý đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khắc phục các nguyên nhân này là việc cần phải làm để hướng đến nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp cũng như hiệu quả công tác quản lý đất đai trong giai đoạn tới.
Có thể kể đến các nguyên nhân bao gồm:
Một là, do sự quản lý yếu kém kéo dài của cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về đất đai trong việc lưu trữ, quản lý hồ sơ. Một số cơ quan để xảy ra tình trạng thất lạc hồ sơ về thửa đất, lưu trữ không đầy đủ tài liệu làm gián đoạn thông tin về quá trình sử dụng đất, thông tin trong hồ sơ về thửa đất bị thiếu và không chính xác (về kích thước, số đo, diện tích, hình thù thửa đất, tài sản trên đất) dẫn đến không cập nhật được di biến động về thửa đất.
Thực trạng này xuất phát từ quy định, cách làm không hợp lý của cơ quan quản lý về đất đai như: (i) chậm hoàn thiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân, doanh nghiệp; (ii) có sự nhầm lẫn trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; (iii) giao đất không cụ thể trên thực địa, không rõ ranh giới, chồng lấn khi giao; (iv) không xác định được thành viên trong quá trình cấp giấy giấy chứng nhận cho hộ gia đình; (v) yêu cầu bắt buộc ghi cả tên vợ hoặc chồng trong hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cá nhân; (vi) cung cấp thông tin cho đương sự, cơ quan giải quyết tranh chấp không kịp thời, thiếu chính xác dẫn đến hồ sơ về thửa đất không bảo đảm độ tin cậy, gây trở ngại rất lớn cho việc giải quyết nhanh và chính xác các vụ tranh chấp về đất đai.
Hai là, do chính sách pháp luật về đất đai thay đổi liên tục và nhanh chóng trong một thời gian dài, nhưng mỗi lần thay đổi không có các quy định của pháp luật minh định rõ các quan hệ đất đai hình thành trên thực tế trong các thời đoạn đó, tạo ra những điểm mờ trong quan hệ về đất đai, dẫn đến cách hiểu và vận dụng quy định pháp luật đất đai chưa đồng bộ, chưa thống nhất ở các cơ quan quản lý đất đai trên cả nước.
Một số vấn đề bất cập trong giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay
Về quy định hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
Khi tranh chấp đất đai xảy ra, việc hòa giải tranh chấp gắn với 2 hình thức gồm: hòa giải ngoài tố tụng (tại ủy ban nhân dân cấp xã) và hòa giải trong tố tụng (hòa giải tại tòa án).
Theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai 2013, Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Trong trường hợp tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Như vậy, với quy định này thì khi có tranh chấp đất đai bắt buộc phải trải qua giai đoạn hòa giải, và khi các bên không tự hòa giải được với nhau thì phải nộp đơn yêu cầu ủy ban nhân dân cấp xã hòa giải.
Quy định này trên thực tế gặp khó khăn, bất cập ở những địa phương không có đơn vị hành chính cấp xã (những đơn vị huyện đảo đặc thù như huyện Côn Đảo của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; huyện Cồn Cỏ của tỉnh Quảng Trị; huyện Bạch Long Vĩ của thành phố Hải Phòng). Ở những địa phương này, khi xảy ra tranh chấp đất đai thì việc hòa giải sẽ gặp khó khăn trong việc xác định cơ quan hòa giải và cơ sở pháp lý để hòa giải, dẫn đến khó khăn cho việc gửi đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai sau đó[1].
Theo quy định, hòa giải ở cơ sở là một thủ tục bắt buộc trong giải quyết tranh chấp đất đai, kết quả hòa giải phải được lập thành biên bản, có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc không thành của ủy ban nhân dân cấp xã. Trên thực tế xảy ra tình trạng, khi cơ quan này mời các bên để hòa giải nhưng phía bị đơn không đến (mặc dù đã được tống đạt giấy mời hợp lệ), dẫn đến việc ủy ban nhân dân cấp xã không thể tiến hành hòa giải được, trong biên bản hòa giải cũng không thể có chữ ký của bị đơn, ủy ban nhân dân cấp xã lập biên bản không hòa giải được. Trong trường hợp này, Luật Đất đai hiện hành không đề cập đến loại tài liệu (biên bản) được coi là cơ sở để tòa án căn cứ vào đó để thụ lý giải quyết các tranh chấp đất đai theo thủ tục tố tụng dân sự.
Đây là vấn đề cần phải được hướng dẫn một cách cụ thể trong thời gian tới để việc áp dụng pháp luật đất đai được thực hiện một cách thống nhất. Ngoài ra, kết quả hòa giải thành tại ủy ban nhân dân cấp xã không có giá trị bắt buộc thực hiện đối với các bên đương sự nên trên thực tế xảy ra tình trạng sau khi ủy ban nhân dân cấp xã hòa giải thành xong mà các bên không thực hiện thì phải xử lý như thế nào, các bên đương sự cần làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình[2]. Tranh chấp đất đai, nhất là tranh chấp về quyền sử dụng đất, về mặt bản chất là tranh chấp dân sự.
Vì vậy, cần thiết phải tôn trọng ý chí, sự thỏa thuận của các bên nếu sự thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm hoặc trái đạo đức xã hội, nhất là các nội dung thỏa thuận mà các bên đã thống nhất, được biên bản hòa giải thành của ủy ban nhân dân cấp xã ghi nhận. Các vấn đề này cần được quy định rõ hơn trong Luật Đất đai.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định, tòa án với tư cách là cơ quan xét xử, có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này, là một chế định bắt buộc trong thủ tục tố tụng dân sự, tạo cơ hội cho các bên tranh chấp thương lượng, giải quyết với nhau mà không cần phải để tòa án phân định xét xử.
Theo thống kê của Tòa án nhân dân Tối cao và các cơ quan hữu quan, hòa giải trong tố tụng đã thể hiện được vai trò của mình trong việc giải quyết các xung đột về quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan, đồng thời chấm dứt quá trình tố tụng kéo dài và hạn chế những thiệt hại không đáng có[3]. Đối với tranh chấp đất đai thì việc hòa giải tại tòa án mang ý nghĩa tích cực, hạn chế được tình trạng án sai.
Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Theo quy định tại Điều 203 Luật Đất đai 2013, sau khi hòa giải tại ủy ban nhân dân cấp xã mà hòa giải không thành, không hòa giải được thì nếu đất tranh chấp đã được cấp giấy chứng nhận hoặc có một trong các giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 thì tòa án sẽ thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Nếu đất đai không có giấy tờ nào nêu trên thì các bên tranh chấp được lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trên.
Việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho tòa án khi loại đất tranh chấp mà các bên chưa có bất cứ loại giấy tờ gì là đã trao vượt quá chức năng, thẩm quyền của tòa án, chưa cần đánh giá về hiệu quả giải quyết tranh chấp. Từ chỗ, tòa án chỉ có quyền xác định ai là người có quyền dân sự đang bị người khác tranh chấp, nay với quy định như trên, tòa án lại có thêm quyền xác định ai được quyền sử dụng đất chưa có căn cứ pháp luật, chưa được công nhận về pháp lý mà vốn dĩ thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì chỉ những tài sản đã thuộc quyền sở hữu hợp pháp của một chủ thể, nay có chủ thể khác xâm phạm, tranh chấp thì tòa án căn cứ vào tài liệu chứng cứ để xác định thực chất tài sản đó là của chủ thể nào thì công nhận cho chủ thể đó, buộc bên đang chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho bên có quyền. Tòa án không có thẩm quyền xác định tài sản tranh chấp (đất đai) cho bất cứ chủ thể nào khi đất đai chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chủ thể đó sử dụng[4]. Việc giao thẩm quyền giải quyết cho tòa án trong trường hợp này là không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của tòa án, là trái quy định Hiến pháp và mâu thuẫn với chính quy định của Luật Đất đai về tính thống nhất trong quản lý đất đai.
Về hoạt động phối hợp trong giải quyết tranh chấp đất đai
Tòa án với chức năng xét xử chuyên biệt, với ưu thế về đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn về luật song hiệu quả giải quyết tranh chấp của tòa án lại phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động phối hợp xác minh, cung cấp thông tin của cơ quan quản lý đất đai.
Qua thực tiễn xét xử cho thấy, việc phối hợp giữa tòa án với các cơ quan hành chính thường chưa thực sự hiệu quả. Theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì đương sự phải có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ chứng cứ cho tòa án nhưng trên thực tế quy định này gặp nhiều bất cập. Các cơ quan hành chính nhà nước là nơi nắm giữ những tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc tranh chấp nhưng nhiều khi cán bộ các cơ quan này thiếu sự hợp tác trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của đương sự, tòa án.
Ngoài ra, việc phối hợp trong quá trình xác minh thu thập, đánh giá chứng cứ, định giá quyền sử dụng đất giữa các cơ quan cũng chưa thực sự chặt chẽ. Có những trường hợp cơ quan quản lý đất đai cung cấp thiếu thông tin, chậm trễ cung cấp thông tin gây khó khăn cho quá trình giải quyết tranh chấp. Đó chính là những nguyên nhân làm cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài. Đây là vấn đề cần được Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung để tăng cường hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay.
Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Tiến Mạnh, Giám đốc Công ty Luật TNHH Hồng Long.
Kiến nghị
Từ thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai, qua các nội dung còn tồn tại bất cập, chưa phù hợp, Luật Đất đai năm 2013 cần có sự điều chỉnh một số nội dung liên quan đến các vấn đề sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung đối với các quy định liên quan đến hoạt động hòa giải của ủy ban nhân dân cấp xã theo hướng:
(i) Bổ sung quy định về cơ quan tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai thay cho ủy ban nhân dân cấp xã ở những địa bàn không có đơn vị hành chính cấp xã;
(ii) Bổ sung quy định đối với trường hợp ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp tổ chức buổi hòa giải nhưng một trong các bên hoặc hai bên đương sự vắng mặt không có lý do chính đáng thì ủy ban nhân dân cấp xã vẫn sẽ tiến hành hòa giải vắng mặt, lập biên bản hòa giải mà không có chữ ký của bên vắng mặt, sau đó tống đạt văn bản đến bên vắng mặt trong buổi hòa giải;
(iii) Đối với trường hợp tranh chấp đất đai đã được tổ chức hòa giải thành nhưng sau đó một trong các bên lại thay đổi ý kiến không chấp nhận kết quả hòa giải thành thì không cần tiếp tục các thủ tục hòa giải vì một bên tranh chấp đã không có thiện chí chấp hành sự thỏa thuận của các bên, nếu tiếp tục hòa giải chỉ làm kéo dài quá trình giải quyết vụ việc. Trong trường hợp này, nên bổ sung quy định trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành tại ủy ban nhân dân cấp xã, nếu các bên không có ý kiến gì thì mặc nhiên biên bản thỏa thuận đó được công nhận, các bên phải thực hiện nội dung đã thỏa thuận.
Trường hợp trong thời hạn 30 ngày mà một trong các bên có thay đổi về kết quả hòa giải trước đó thì ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành hòa giải lại và đây là lần hòa giải sau cùng. Trường hợp sau 30 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành, nếu một trong các bên tranh chấp có căn cứ để chứng minh biên bản hòa giải đó vi phạm thủ tục thì có quyền nộp đơn khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên hủy biên bản hòa giải thành này và tòa án chỉ xem xét về mặt thủ tục đối với biên bản hòa giải thành đã lập, không xem xét lại nội dung hòa giải mà các bên đã thỏa thuận với nhau.
Thứ hai, sửa đổi theo hướng bãi bỏ thẩm quyền giải quyết tranh chấp của tòa án đối với trường hợp đất tranh chấp chưa có bất cứ loại giấy tờ tài liệu nào về quyền sử dụng đất.
Thứ ba, bổ sung các quy định về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong hoạt động phối hợp giải quyết tranh chấp đất đai, cụ thể là:
(i) Bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý đất đai trong hoạt động phối hợp giải quyết tranh chấp với tòa án và các cơ quan liên quan; trong đó quy định cụ thể trách nhiệm và thời gian thực hiện công tác phối hợp xác minh, cung cấp thông tin của cơ quan quản lý đất đai khi có yêu cầu;
(ii) Bổ sung chế tài cụ thể liên quan đến hành vi không thực hiện, chậm trễ thực hiện và thực hiện gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong quá trình thực hiện các trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai;
(iii) Bổ sung quy định về cơ chế xử lý trách nhiệm đối với những trường hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang nắm giữ tài liệu, chứng cứ về đất tranh chấp của vụ án mà thiếu sự hợp tác hoặc không cung cấp tài liệu, chứng cứ của vụ án để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đúng pháp luật.
Những vấn đề kiến nghị nêu trong phạm vi bài viết này chỉ giới hạn ở các quy định liên quan đến trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai. Ngoài ra, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung thêm các quy định liên quan đến các quan hệ pháp luật khác phát sinh trong thực tế đời sống có yếu tố về đất đai mà trong phạm vi hạn hẹp của bài viết chưa thể đề cập đến để Luật Đất đai thực sự phát huy hiệu quả trên thực tế.
[1] Nguyễn Văn Sơn, Hòa giải tranh chấp đất đai và những khó khăn, vướng mắc trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án tranh chấp đất đai, xem tại: http://vienkiemsatbrvt.gov.vn/portal/p/2318 (truy cập ngày 28/10/2021). [2] Minh Tuấn, Vướng mắc, bất cập, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục tố tụng dân sự, xem tại: https://stp.bacgiang.gov.vn/hien-thi-noi-dung/-/asset_publisher/wtMnvtGfRUNi/content/vuong-mac-bat-cap-kien-nghi-hoan-thien-pl-ve-tham-quyen-giai-quyet-tranh-chap-at-ai-theo-thu-tuc-ttds [3] Lương Thị Bích Ngân, Một số vấn đề về hòa giải tranh chấp đất đai tại Việt Nam, xem tại: http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210774 [4] Tưởng Duy Lượng, Những khó khăn, vướng mắc trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và một vài kiến nghị, xem tại: https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/trao-doi-y-kien/tranh-chap-quyen-su-dung-dat-thua-ke-quyen-su-dung-dat-mot-loai-tranh-chap-phuc-tap-vi-sao |
THẠC SĨ, LUẬT SƯ NGUYỄN TIẾN MẠNH
Giám đốc Công ty Luật TNHH Hồng Long,
Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh
Bàn về tình tiết ‘dùng thủ đoạn nguy hiểm’ quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015
Vấn đề đồng phạm của pháp nhân thương mại phạm tội quy định trong Bộ luật Hình sự
(LSVN) - Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS năm 2015) ra đời nhằm thay thế BLHS năm 1999, một nội dung quan trọng được quy định trong BLHS năm 2015 đó là đưa pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm, mặc dù các điều luật khác đã sửa đổi, bổ sung nhằm phù hợp với việc bổ sung thêm chủ thể này, tuy nhiên cũng có một số điều luật chưa sửa đổi, bổ sung nên trong quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau trong đó có vấn đề đồng phạm của pháp nhân thương mại phạm tội.
Ảnh minh họa.
1. Cơ sở pháp lý.
Theo Điều 17 BLHS năm 2015 quy định cụ thể về đồng phạm như sau:
“1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm”.
Mặc dù hiện nay pháp luật không quy định thế nào là đồng phạm song có thể hiểu khái niệm đồng phạm tồn tại dưới hai nội dung:
Thứ nhất đó là đồng phạm có sự bàn bạc, thống nhất giữa những người thực hiện hành vi phạm tội, việc bàn bạc, thống nhất này có thể được thực hiện trước khi thực hiện hành vi phạm tội, trong khi thực hiện hành vi phạm tội hoặc sau khi thực hiện hành vi phạm tội, như vậy, nội dung này tồn tại ở tất cả các giai đoạn của hành vi phạm tội.
Thứ hai đó là dạng đồng phạm tiếp nhận ý chí, đây là đồng phạm mà không có sự bàn bạc, thống nhất song giữa những người phạm tội có sự ăn ý, hiểu ý nên vẫn cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội, dạng này tồn tại phổ biến ở giai đoạn đang thực hiện hành vi phạm tội và nó diễn ra trước khi hậu quả tội phạm xảy ra, nếu nó diễn ra sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì không là đồng phạm. Đồng thời, người tiếp nhận ý chí đó phải có các hành vi cùng với người thực hành thực hiện hành vi phạm tội, thông thường người tiếp nhận ý chí thực hiện với vai trò là người giúp sức trong đồng phạm.
2. Nhận diện vấn đề đồng phạm trong pháp nhân thương mại phạm tội
2.1. Pháp nhân đồng phạm với người
Pháp nhân là một tổ chức (một chủ thể pháp luật) có tư cách pháp lý độc lập, có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội,… theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 75 Bộ luật Dân sự 2015 thì khái niệm pháp nhân thương mại được quy định cụ thể như sau:
“Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên”. Từ khái niệm trên có thể thấy, pháp nhân là một tổ chức do nhiều người liên kết thành, như vậy, khái niệm pháp nhân và khái niệm “hai người trở lên” trong khái niệm đồng phạm của BLHS là hai thuật ngữ hoàn toàn khác nhau do đó có quan điểm cho rằng giữa pháp nhân thương mại và con người không thể đồng phạm với nhau?
Tuy nhiên xét dưới góc độ pháp lý chúng ta có thể thấy rằng, pháp nhân là một tổ chức có đại diện theo pháp luật là một người đứng đầu (tức là một con người cụ thể) việc tổ chức và hoạt động của pháp nhân là hoàn toàn dựa vào ý chí của con người mà cụ thể, nên khi pháp nhân thương mại phạm tội đồng phạm thì nó được thực hiện theo ý chí con người đây là vấn đề không thể tách rời được, tuy nhiên, hành vi phạm tội của pháp nhân chỉ có thể đồng phạm với con người cụ thể khi đại diện cho pháp nhân đó nhân danh pháp nhân, vì lợi ích pháp nhân, có sự chỉ đạo điều hành khi thực hiện hành vi phạm tội.
Mặc dù, quy định đồng phạm trong BLHS chỉ đề cập đến con người cụ thể mà không đề cập đến chủ thể là pháp nhân thương mại là không phù hợp với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 8 của BLHS, tuy nhiên, có thể hiểu tinh thần trong quy định về đồng phạm của BLHS đó là vấn đề ý chí của các chủ thể trong việc cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội mà không phân biệt là con người hay pháp nhân thương mại.
2.2. Pháp nhân đồng phạm với pháp nhân
Theo quy định tại Điều 75 BLHS về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại:
"1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;
d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này”.
Từ quy định về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân có thể xác định vấn đề đồng phạm giữa pháp nhân với pháp nhân chủ yếu thông qua việc ký kết hợp đồng, văn bản thỏa thuận, đây là một dạng đồng phạm xảy ra phổ biến liên quan đến quy định trong vấn đề quan hệ làm ăn giữa các pháp nhân thương mại, việc ký kết hợp đồng, văn bản thỏa thuận là một hình thức nhằm qua mắt cơ quan có thẩm quyền, song trong thực tiễn là sự thỏa thuận bằng miệng giữa những người của pháp nhân với nhau, vấn đề này trong thực tiễn rất khó xác định.
3. Kiến nghị
Nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng đấu tranh phòng chống tội phạm, cũng như phù hợp với các quy định khác trong BLHS về chủ thể tội phạm thiết nghĩ cần sửa đổi, bổ sung quy định về đồng phạm tại Điều 17 BLHS năm 2015 cụ thể như sau:
"1. Đồng phạm là trường hợp có hai chủ tội phạm thể trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa các chủ thể cùng thực hiện tội phạm.
3. Đồng phạm bao gồm hành vi tổ chức, hành vi thực hành, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức.
Hành vi thực hành là hành vi trực tiếp thực hiện tội phạm.
Hành vi tổ chức là hành vi chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Hành vi xúi giục là hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy chủ thể khác thực hiện tội phạm.
Hành vi giúp sức là hành vi tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm”.
TRẦN VĂN HÙNG
TÒA ÁN QUÂN SỰ KHU VỰC QUÂN KHU 4
Những điểm mới về quyền bào chữa của người bị buộc tội theo Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
Việc sử dụng các hợp chất để sản xuất thực phẩm được quy định như thế nào?
(LSVN) – Pháp luật hiện hành quy định như thế nào về việc sử dụng các hợp chất trong sản xuất thực phẩm? Bạn đọc H.T. hỏi.
Ảnh minh họa.
Liên quan đến vấn đề này, Luật sư Nguyễn Thị Thu Hoài – Công ty Luật TNHH Thuế và Luật Hà Nội, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết các hợp chất để sản xuất thực phẩm có thể được hiểu là chất hỗ trợ chế biến thực phẩm; phụ gia thực phẩm; các hóa chất công nghiệp thực phẩm; chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật … được phép sử dụng trong sản xuất thực phẩm.
Theo quy định của Luật An toàn thực phẩm năm 2010, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm là chất được chủ định sử dụng trong quá trình chế biến nguyên liệu thực phẩm hay các thành phần của thực phẩm nhằm thực hiện mục đích công nghệ, có thể được tách ra hoặc còn lại trong thực phẩm. Phụ gia thực phẩm là chất được chủ định đưa vào thực phẩm trong quá trình sản xuất, có hoặc không có giá trị dinh dưỡng, nhằm giữ hoặc cải thiện đặc tính của thực phẩm. Các hóa chất công nghiệp thực phẩm được dùng trong hoạt động sản xuất thực phẩm.
Khoản 1 Điều 10 của Luật An toàn vệ sinh thực phẩm 2010 quy định về điều kiện chung về đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm gồm đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định về giới hạn vi sinh vật gây bệnh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng thuốc thú y, kim loại nặng, tác nhân gây ô nhiễm và các chất khác trong thực phẩm có thể gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người.
Tùy từng loại thực phẩm, ngoài các quy định tại khoản 1 Điều này, thực phẩm còn phải đáp ứng một hoặc một số quy định sau đây:
- Quy định về sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm;
- Quy định về bao gói và ghi nhãn thực phẩm;
- Quy định về bảo quản thực phẩm.
Cụ thể, thực phẩm phải đáp ứng các tiêu chuẩn về hàm lượng quy định tại các văn bản pháp luật như sau như sau:
- Quy định về chất phụ gia thực phẩm: Thông tư 24/2019/TT-BYT
- Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật: Thông tư 50/2016/TT-BYT
- Giới hạn vi sinh vật gây bệnh: Thông tư 05/2012/TT-BYT
- Dư lượng thuốc thú ý, Dư lượng kim loại nặng, tác nhân gây ô nhiễm: Quyết định 46/2007/QĐ-BYT.
Như vậy, đối với những chất/ hợp chất không được liệt kê trong danh mục được phép sử dụng hoặc được liệt kê trong danh mục chất cấm thì sẽ không được phép sử dụng.
Trên thực tế, việc quy định các tiêu chuẩn kỹ thuật trong sản xuất đối với từng loại thực phẩm là do từng quốc gia, khu vực quy định. Mỗi quốc gia, khu vực đơn phương đưa ra tiêu chuẩn trong việc sử dụng các hợp chất để sản xuất thực phẩm là khác nhau và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chính sách xuất nhập khẩu mỗi nước, điều kiện kỹ thuật, phương thức quản lý, thói quen tiêu dùng, điều kiện khí hậu, môi trường, thời tiết, điều kiện sống, sức khỏe con người,…
HỒNG HẠNH
Điều chỉnh thuế suất, thuế xuất khẩu một số mặt hàng
Quy định mới về phí tuyển dụng, dự thi nâng ngạch công chức, viên chức
(LSVN) - Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 92/2021/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí tuyển dụng, dự thi nâng ngạch, thăng hạng công chức, viên chức.
Ảnh minh họa.
Thông tư nêu rõ, người đủ điều kiện, tiêu chuẩn dự thi hoặc xét tuyển công chức, viên chức tham gia tuyển dụng; công chức, viên chức đủ điều kiện, tiêu chuẩn tham gia dự thi nâng ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức phải nộp phí theo quy định tại Thông tư này.
Người nộp phí thực hiện nộp phí theo thông báo triệu tập của Hội đồng tuyển dụng hoặc Hội đồng thi nâng ngạch, thăng hạng công chức, viên chức.
Mức thu phí tuyển dụng, dự thi nâng ngạch, thăng hạng công chức, viên chức như sau:
- Đối với tuyển dụng (gồm thi tuyển, xét tuyển): Mức thu dưới 100 thí sinh là 500.000 đồng/thí sinh/lần; Mức thu từ 100 đến dưới 500 thí sinh là 400.000 đồng/thí sinh/lần; Từ 500 thí sinh trở lên mức thu là 300.000 đồng/thí sinh/lần.
- Đối với dự thi nâng ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức:
Nâng ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức hạng I: Dưới 50 thí sinh mức thu 1.400.000 đồng/thí sinh/lần; Từ 50 đến dưới 100 thí sinh thu 1.300.000 đồng/thí sinh/lần; Từ 100 thí sinh trở lên thu 1.200.000 đồng/thí sinh/lần.
Nâng ngạch chuyên viên, chuyên viên chính và tương đương; thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức hạng II, hạng III, hạng IV: Dưới 100 thí sinh thu 700.000 đồng/thí sinh/lần; Từ 100 đến dưới 500 thí sinh thu 600.000 đồng/thí sinh/lần; Từ 500 thí sinh trở lên thu 500.000 đồng/thí sinh/lần.
Mức thu đối với phúc khảo thi tuyển dụng; thi nâng ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức là 150.000 đồng/bài thi.
Như vậy, so với quy định hiện hành tại Thông tư 228/2016/TT-BTC, mức thu phí tuyển dụng, dự thi nâng ngạch, thăng hạng công chức, viên chức quy định tại Thông tư 92 không thay đổi, nhưng có bổ sung mức thu phí trường hợp thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức hạng IV.
Về quản lý và sử dụng phí, Thông tư nêu rõ, tổ chức thu phí là đơn vị sự nghiệp công lập được để lại 100% số tiền phí thu được để trang trải cho các nội dung chi theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 120/2016/NĐ-CP Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phí và lệ phí.
Tổ chức thu phí là cơ quan nhà nước nộp toàn bộ số tiền phí thu được vào ngân sách Nhà nước. Nguồn chi phí trang trải cho việc thực hiện công việc và thu phí do ngân sách Nhà nước bố trí trong dự toán của tổ chức thu theo chế độ, định mức chi ngân sách Nhà nước.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/12/2021.
PHƯƠNG HOA
Ngày Pháp luật Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Đề xuất các điều kiện tổ chức phiên tòa trực tuyến
(LSVN) - TAND Tối cao, Viện KSND Tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đang dự thảo Thông tư liên tịch quy định quan hệ phối hợp trong việc thực hiện tổ chức phiên tòa trực tuyến.
Ảnh minh họa.
Dự thảo Thông tư liên tịch quy định về phạm vi, nguyên tắc tổ chức; điều kiện; chuẩn bị phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự; vụ án hành chính; vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (vụ án dân sự) trực tuyến.
Theo đó, phạm vi mở phiên tòa trực tuyến như sau:
- Xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đối với vụ án hình sự mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, chứng cứ rõ ràng và bị cáo đang bị tạm giam hoặc đang chấp hành án tại cơ sở giam giữ.
- Xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đối với các vụ án dân sự, hành chính có tính chất đơn giản, các đương sự có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng.
Không mở phiên tòa trực tuyến đối với vụ án quy định trên khi thuộc một trong các trường hợp:
- Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan ở nước ngoài; vụ án dân sự, hành chính có tài sản ở nước ngoài.
- Vụ án hình sự bị cáo bị đưa ra xét xử về một trong các tội quy định tại Chương XIII, Chương XXV, Chương XXVI của Bộ luật Hình sự.
- Vụ án hình sự, dân sự, hành chính thuộc trường hợp có thể xét xử kín theo quy định của pháp luật tố tụng.
Việc tổ chức phiên tòa trực tuyến đối với vụ án hình sự quy định được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau:
- Bị cáo, cơ sở giam giữ có đơn, văn bản đề nghị;
- Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng có văn bản đồng ý xét xử trực tuyến;
- Bảo đảm đáp ứng yêu cầu về cơ sở vật chất, kỹ thuật theo quy định.
Việc tổ chức phiên tòa trực tuyến đối với vụ án dân sự, hành chính được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau:
- Đương sự có đơn đề nghị mở phiên tòa trực tuyến;
- Viện Kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng có văn bản đồng ý mở phiên tòa trực tuyến (đối với trường hợp Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa theo quy định của pháp luật tố tụng);
- Bảo đảm đáp ứng yêu cầu về cơ sở vật chất, kỹ thuật theo quy định.
Dự thảo cũng quy định cụ thể về yêu cầu đối với các điểm cầu; yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ; các bước chuẩn bị phiên tòa trực tuyến cũng như việc xử lý một số tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa.
DUY ANH
Bàn về tình tiết ‘dùng thủ đoạn nguy hiểm’ quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015