/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Thực trạng xây dựng nền tư pháp Việt Nam và những vấn đề đặt ra

Thực trạng xây dựng nền tư pháp Việt Nam và những vấn đề đặt ra

23/09/2022 16:40 |

(LSVN) - Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền tư pháp Việt Nam phát triển không ngừng, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Uy tín, vị thế của cơ quan tư pháp và các chức danh tư pháp ngày càng được nâng cao; nền tư pháp được xây dựng ngày càng công khai, minh bạch, chịu sự giám sát của nhân dân. Tuy nhiên, hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp có mặt còn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển của đất nước. Chính vì vậy, cần đánh giá đúng thực trạng, xác định nguyên nhân và vấn đề đặt ra để từ đó có giải pháp tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam theo đúng mục tiêu Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra.

Ảnh minh họa. 

Khái quát về thực trạng xây dựng nền tư pháp Việt Nam hiện nay

Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW đã khẳng định: “...công tác cải cách tư pháp đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng; nền tư pháp nước ta đã có một bước tiến dài trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, phòng, chống tham nhũng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII khẳng định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (1). Đặc biệt, Đảng nhấn mạnh “cải cách tư pháp trên một số lĩnh vực có bước đột phá. Tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức và cá nhân; tôn trọng và bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân” (2).

Sự phát triển không ngừng của nền tư pháp đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN thể hiện ở kết quả nổi bật, đột phá tạo hiệu quả, hiệu lực và chất lượng của các cơ quan tư pháp trong hoạt động xét xử, công tố, điều tra, thi hành án và bổ trợ tư pháp. Theo Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2016-2021 của Tòa án nhân dân tối cao trình Quốc hội: hệ thống tòa án các cấp đã giải quyết hơn 2,37 triệu vụ việc, đạt tỷ lệ 97,6%. Chất lượng xét xử tiếp tục được bảo đảm và có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan hằng năm đều dưới 1,5%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết của Quốc hội. Trong nhiệm kỳ qua, toàn ngành kiểm sát đã nỗ lực triển khai, thực hiện đồng bộ, hiệu quả nhiều giải pháp, tạo sự chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt công tác, nhất là nhiệm vụ phòng, chống oan, sai, chống bỏ lọt tội phạm. Tỷ lệ số vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tố tụng giảm (tỷ lệ Viện Kiểm sát trả hồ sơ giảm 0,05%, tòa án trả hồ sơ giảm 1,22%); số vụ án Viện Kiểm sát truy tố đúng thời hạn đạt tỷ lệ 99,9%, vượt 9,9% và số bị can Viện Kiểm sát truy tố đúng tội danh đạt tỷ lệ 99,9% vượt 4,9% chỉ tiêu của Nghị quyết 96 (3). Những trường hợp bị khởi tố, điều tra oan chiếm tỷ lệ rất nhỏ, giảm dần theo từng năm và giảm 52,7% so với nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII.

Kết quả nội dung thực hiện cải cách tư pháp trong nhà nước pháp quyền thời gian qua cho thấy rõ vai trò của cải cách tư pháp có đóng góp quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực của nền tư pháp Việt Nam.

Bên cạnh đó, nền tư pháp Việt Nam được xây dựng và hoàn thiện phản ánh những giá trị văn minh của nhân loại; uy tín, vị thế của tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, bổ trợ tư pháp và các chức danh tư pháp ngày càng được nâng cao, thể hiện ở những điểm sau:

(1) Tổ chức và hoạt động của tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, thi hành án, bổ trợ tư pháp được xây dựng, kiện toàn. Bên cạnh việc tiếp tục quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp (Điều 102), “Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” trong cơ chế “quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Việc Hiến định vị trí pháp lý của tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân như trên thể hiện thành công của quá trình cải cách tư pháp nhằm xây dựng nền tư pháp hiện đại, hiệu quả với giá trị phổ biến của nền tư pháp là tính độc lập. Trong đó tòa án là một bộ phận quyền lực Nhà nước, giữ vị trí trung tâm, xét xử là trọng tâm. Viện Kiểm sát nhân dân được thiết lập là một hệ thống cơ quan độc lập theo chiều dọc, có nhiệm vụ: “bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, bảo vệ công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất (khoản 3 Điều 107) và bảo vệ Hiến pháp (Điều 119). Mô hình tổ chức của cơ quan điều tra theo hướng tinh gọn, hiệu quả hơn (4); nhiệm vụ của cơ quan điều tra được xác định rõ trong mối quan hệ với các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (5); kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng hình sự... Hệ thống cơ quan thi hành án hình sự và thi hành án dân sự được kiện toàn, bảo đảm sự quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương; quyền hạn, trách nhiệm, sự phối hợp của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, cấp ủy, chính quyền địa phương và các cơ quan khác liên quan đến công tác thi hành án được xác định rõ; số vụ, việc Luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền lợi ngày càng tăng (6), chất lượng bào chữa của các Luật sư trong các vụ án ngày càng được nâng cao, số lượng dịch vụ pháp lý của Luật sư nhìn chung năm sau tăng hơn năm trước.

(2) Thủ tục tư pháp không ngừng được hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm, tránh oan sai, bảo đảm công lý, phản ánh chính sách nhân đạo, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong đó, các nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận và bảo đảm thực hiện trong thực tế (7); nguyên tắc suy đoán vô tội được Hiến định và cụ thể hóa trong Bộ luật Tố tụng hình sự (8). Chính sách hình sự ngày càng hoàn thiện đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, giảm hình phạt tù, hạn chế hình phạt tử hình, giảm khung hình phạt tối đa quá cao, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ, khắc phục tình trạng tội phạm hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự, tội phạm hóa những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển xã hội; hoàn thiện pháp luật dân sự, tôn trọng quyền tự do kinh doanh, xác lập các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại; hạn chế sự can thiệp quá mức của cơ quan công quyền vào các quan hệ này; hình thành cơ chế pháp lý bảo đảm thực thi tốt hơn quyền của các chủ thể trong giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại thúc đẩy các quan hệ phát triển lành mạnh. Công tác xây dựng án lệ được tăng cường, “được chánh án tòa án tối cao nhiều nước đánh giá đạt trình độ quốc tế, mở ra thời kỳ mới về phát triển án lệ, tăng cường áp dụng án lệ trong xét xử như xu thế chung của thế giới” (9).

(3) Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp được quan tâm. Hiện nay, ở Việt Nam đã có lực lượng thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, Luật sư lớn mạnh. Công tác giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên được chú trọng thường xuyên, uy tín của cán bộ tư pháp được nâng lên.

Nền tư pháp được xây dựng ngày càng công khai, minh bạch, chịu sự giám sát của nhân dân. Quốc hội đổi mới và tăng cường giám sát hoạt động tư pháp thông qua xét báo cáo, chất vấn, giám sát chuyên đề và tăng cường hoạt động của Ủy ban Tư pháp; tòa án nhân dân thực hiện công bố bản án trên Cổng thông tin điện tử (10) (trừ những bản án hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến thuần phong mỹ tục); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận đã tích cực tham gia giám sát các hoạt động tư pháp (11); các phương tiện thông tin đại chúng đã chủ động, tích cực hơn trong việc tuyên truyền về hoạt động tư pháp, kịp thời thông tin góp phần làm sáng tỏ nhiều vụ, việc sai phạm, thiếu sót trong hoạt động tư pháp.

Một số tồn tại, hạn chế trong quá trình xây dựng nền tư pháp Việt Nam

Sau 15 năm thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, nền tư pháp còn bộc lộ một số hạn chế (12). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ “cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước” (13). Do đó, cần thấy rõ một số tồn tại như:

Thứ nhất, tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của tòa án, viện kiểm sát, thi hành án dân sự, hình sự chưa thực sự phù hợp: “có nơi thì tòa án bị quá tải còn có nơi thì tòa án thiếu việc làm... Điều này cũng nói lên một vấn đề là các thẩm phán không có sự công bằng trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Với quyền lợi và ngạch lương như nhau thì có những thẩm phán phải làm việc gấp mười lần các thẩm phán khác”(14), “chưa rõ ràng về vị trí, thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong các hoạt động kiểm sát, đặc biệt là về hình thức thực hiện và giới hạn của hoạt động kiểm sát trong lĩnh vực tư pháp về kinh tế, dân sự, lao động” (15).

Thứ hai, chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có mặt chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội; thực trạng thi hành các quy định về bảo đảm quyền bào chữa còn một số bất cập, vướng mắc và khó khăn làm hạn chế việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, quyền hành nghề của Luật sư và ảnh hưởng đến đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, khả năng tiếp cận công lý, tôn trọng và bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp (16).

Thứ ba, vai trò, trách nhiệm của tòa án trong giai đoạn điều tra, truy tố, thi hành án chưa được xác định phù hợp với vị trí “trung tâm”; cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền tư pháp hiệu quả chưa cao (17). Cải cách hành chính trong các cơ quan tư pháp còn chậm.

Thứ tư, “công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp chưa được quan tâm đúng mức, chưa có quy hoạch tổng thể các cơ sở đào tạo cử nhân luật; chưa xây dựng được cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có đủ tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ quan tư pháp nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; chưa thực hiện được chủ trương “mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp” (18). Trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ tư pháp còn hạn chế; trình độ ngoại ngữ, kiến thức pháp luật quốc tế chưa được cập nhật thường xuyên; đội ngũ chuyên gia đầu ngành còn ít, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề pháp lý đặt ra trong điều kiện hội nhập quốc tế. Chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ có chức danh tư pháp chậm được sửa đổi, hoàn thiện.

Vấn đề đặt ra và giải pháp xây dựng nền tư pháp Việt Nam đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN

Vấn đề đặt ra

Một là, xây dựng nền tư pháp Việt Nam đã phù hợp với nhu cầu, đòi hỏi của quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng chưa?

Hai là, nền tư pháp Việt Nam đã chứa đựng và phản ánh đầy đủ giá trị của văn minh nhân loại chưa? Công lý, dân chủ và quyền con người đã gắn với bản chất của nền tư pháp và trở thành giá trị cốt lõi, làm nên bản sắc của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa (19) chưa?

Ba là, các giải pháp xây dựng nền tư pháp Việt Nam giai đoạn tới có tính cải cách, đột phá để đạt mục tiêu không?

Giải pháp

Thứ nhất, nền tư pháp và vai trò của nền tư pháp Việt Nam đối với việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân cần được nhận thức đúng đắn và thống nhất. Muốn vậy, cần nhận thức thống nhất về các giá trị công lý, công bằng, dân chủ…, từ đó có cách tiếp cận dựa trên quyền con người, quyền tư pháp để thấy rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan đề từ đó đề xuất giải pháp phù hợp.

Bên cạnh đó, qua đánh giá tác động trong nước và quốc tế, thấy rõ xu thế tất yếu của xã hội văn minh hướng đến cam kết của các quốc gia trong việc bảo đảm nguyên tắc pháp quyền. Do đó, kiểm soát quyền lực vừa là nguyên tắc, vừa là phương thức tổ chức quyền lực tư pháp. Bảo đảm nguyên tắc thượng tôn pháp luật, tăng cường tính công khai, minh bạch, vô tư, độc lập cũng như bảo đảm tranh tụng trong xét xử và quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự; bảo đảm tính nhân dân trong xét xử là những đòi hỏi cần phải được bảo vệ và bảo đảm trong thực tiễn.

Thứ hai, cần quán triệt, nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và đề cao sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp ở các cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp từ trung ương đến địa phương. Xây dựng nền tư pháp Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng về công tác tư pháp theo hướng “Đảng lãnh đạo chặt chẽ hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp về chính trị”... Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức lối sống, đề cao vai trò, trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tích cực lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các hoạt động tư pháp.

Thứ ba, hoàn thiện vị trí pháp lý, chức năng, thẩm quyền của các thiết chế tư pháp; thực hiện tốt trọng tâm cải cách tư pháp đã được Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII ghi nhận về tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam:

- Cần cụ thể hóa các tiêu chí “chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, văn minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, đồng thời làm rõ nội hàm của các tiêu chí “trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, dân chủ, nghiêm minh, thống nhất, đồng bộ, khả thi, ổn định” làm cơ sở cho việc rà soát, đánh giá chức năng, nhiệm vụ của các thiết chế tư pháp, phát hiện những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo để sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014 và các quy định pháp luật có liên quan nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tư pháp thực hiện có hiệu quả chức năng xét xử, công tố, điều tra, thi hành án và bổ trợ tư pháp.

Thực tiễn đang tồn hai quan điểm về hoàn thiện Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014: quan điểm thứ nhất cho rằng, cần phải rà soát toàn diện, phát hiện bất cập, đặc biệt là các quy định về tổ chức tòa án (toà 4 cấp) dẫn đến tình trạng án quá tải ở tòa án cấp cao, để đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; quan điểm thứ hai cho rằng, Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 ban hành là việc thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp nên việc sơ kết, tổng kết, đánh giá tổ chức và hoạt động là cần thiết, nếu phát hiện bất cập thì ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới các hình thức phù hợp để hướng dẫn thực hiện thống nhất trên toàn quốc, chưa nên đề xuất sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính ổn định. Tuy nhiên, theo tác giả, quá trình thực hiện đã được 6 năm, việc tổ chức, sắp xếp tòa án là cần thiết, đặc biệt là việc quán triệt, đưa chủ trương đề ra ở Hội nghị giữa nhiệm kỳ Khóa XII (Hội nghị TW6, Khóa XII), việc đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 có thể được chấp nhận nếu tiến hành nghiên cứu, rà soát, đánh giá tính hiệu quả, chất lượng và các mục đích mà Chiến lược cải cách tư pháp đã đề ra. Nếu quy định của Luật làm cản trở quá trình cải cách thì việc đề xuất sửa đổi sẽ mang tính khách quan và là việc làm cần thiết.

Hoàn thiện pháp luật tố tụng tư pháp (20) (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2017…) và cơ chế bảo đảm về dịch vụ pháp lý, các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án như thương lượng, hòa giải (21), trọng tài và có biện pháp pháp lý, biện pháp kinh tế phù hợp để người dân và doanh nghiệp nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật và công lý (22), rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp tại tòa án (23) và cả trong quá trình thi hành án.

- Đối với tòa án, cần tiếp tục cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc hiến định về chức năng, nhiệm vụ của tòa án nhân dân và hoạt động xét xử. Tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử (bảo đảm kết hợp cấp hành chính lãnh thổ và cấp thẩm quyền xét xử (24); phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp; cần quy định cụ thể hơn mối quan hệ, thẩm quyền bên trong mỗi tòa án, giữa chánh án và các thẩm phán trên nhiều mặt: về tổ chức, nhân sự, về phân công xét xử (25); bảo đảm nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán và hội thẩm, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân có hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; bảo đảm tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự… Nghiên cứu xây dựng cơ chế thực hiện chức năng quản lý về nhân sự, cơ sở vật chất của tòa án; giám sát việc thực thi công vụ của thẩm phán và khen thưởng, kỷ luật đối với thẩm phán.

- Đối với Viện Kiểm sát nhân dân, tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của tòa án; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra.

- Đối với cơ quan điều tra, cần tiếp tục kiện toàn tổ chức cơ quan điều tra, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra. Bảo đảm quyền con người trong quá trình điều tra vụ án hình sự cũng như trong vụ án dân sự, hành chính, kinh tế thương mại…

- Đối với các chế định Luật sư, bổ trợ tư pháp, cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực Luật sư, công chứng, giám định tư pháp, trợ giúp pháp lý.

Thứ tư, huy động các nguồn lực cần và đủ cho hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trước hết tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tư pháp quốc gia thông qua việc nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng… Tiếp tục đổi mới cơ chế thu hút, tuyển chọn người có đủ tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm, kiến thức xã hội, khả năng ngoại ngữ vào nguồn thi tuyển, bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện nghiêm quy tắc đạo đức nghề nghiệp các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách, đầu tư kinh phí cho việc xây dựng trụ sở tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án hình sự; đồng thời ứng dụng công nghệ thông tin cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử (26); đổi mới cơ chế phân bổ, sử dụng, quyết toán ngân sách Trung ương do Quốc hội phân bổ và cơ chế phân bổ, sử dụng, quyết toán ngân sách do địa phương bảo đảm, phù hợp, kịp thời các đặc thù của hoạt động tư pháp.       

--------------------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Tập 1, tr 71.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Tập 1, tr 72-73.

(3) Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của Viện Kiểm sát nhân dân, của tòa án nhân dân và công tác thi hành án.

(4) Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015.

(5) Luật tổ chức cơ quan điều tra điều tra hình sự năm 2015.

(6) Báo cáo số 09/BC-LĐLSVN ngày 04/5/2020 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam về tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển nghề Luật sư: đội ngũ Luật sư đã tham gia bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho 146.268 vụ án hình sự trong đó có 74.240 vụ án hình sự chỉ định và 72.028 vụ án hình sự được khách hàng mời; 121.744 vụ việc dân sự, 54.170 vụ việc trong lĩnh vực kinh tế kinh doanh thương mại, 9.149 vụ án hành chính, 2.576 vụ án lao động; tham gia tư vấn pháp luật: 705.876 vụ việc; đại diện ngoài tố tụng: 25.932 vụ việc, các dịch vụ pháp lý khác: 112.130 vụ việc và tham gia trợ giúp pháp lý miễn phí: 181.946 vụ việc. 

(7) Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định về chứng cứ, chứng minh, về tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, mối liên hệ giữa ba chức năng trong tố tụng: chức năng xét xử, chức năng công tố và chức năng bào chữa.

(8) Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội (Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự).

(9) Trích phát biểu của Chủ tịch nước đến thăm và làm việc với Tòa án nhân dân tối cao ngày 15/10/2021.

(10) Tính đến tháng 10/2021 có 733.000 bản án, quyết định của tòa án được công bố trên cổng thông tin điện tử.

(11) Từ năm 2005 đến 2019, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã phối hợp giám sát đối với cơ quan tiến hành tố tụng 16.071 lượt; giám sát đối với người tiến hành tố tụng 254 lượt; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trên 40.000 lượt.

(12) Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị Khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

(13) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Tập 1, tr 90.

(14) GS.TSKH Đào Trí Úc, Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Tư pháp, 2007, tr 170.

(15) GS.TSKH.Đào Trí Úc, Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Tư pháp, 2007, tr 171.

(16) TS.LS Phan Trung Hoài, Nâng cao chất lượng đội ngũ Luật sư, góp phần đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử trong bối cảnh đổi mới tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 15/2021.

(17) Viện Kiểm sát (VKS) có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử và thi hành án nhưng chưa giao cho cơ quan nào ngoài hệ thống VKS có trách nhiệm trực tiếp kiểm sát hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp của VKS đối với những vụ án cụ thể, tạo ra “lỗ hổng” trong việc kiểm soát việc thực hành quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp (Báo cáo số 137-BC/ĐUCA, ngày 10/9/2019 của ĐUCATW, tr 39); chưa quy định thẩm quyền, trách nhiệm của tòa án trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong giai đoạn điều tra, truy tố và thi hành án (Báo cáo số 1541a-BC/BCS, ngày 24/10/2019 của BCSĐTANDTC, tr 47); thiếu biện pháp chế tài để xử lý đối với những trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ những yêu cầu, kiến nghị của VKS (Báo cáo số 151-BC/BCSĐ, ngày 01/8/2019 của BCSĐVKSNDTC, tr 40)…

(18) Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW.

(19) GS.TSKH Đào Trí Úc, Sự cần thiết và một số định hướng nghiên cứu, xây dựng Đề án đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, Tạp chí Tòa án số 15/2021. 

(20) GS.TSKH Đào Trí Úc, Tổng quan về mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp - kinh nghiệm CHLB Đức” do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Quỹ hợp tác quốc tế về pháp luật CHLB Đức phối hợp tổ chức ngày 9-10/6/2011 tại Hà Nội.

(21) Nguyễn Đình Tiến, Biện pháp tối ưu trong giải quyết tranh chấp thương mại, https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/bien-phap-toi-uu-trong-giai-quyet-tranh-chap-thuong-mai-326592/

(22) PGS.TS Vũ Công Giao, ThS Hoàng Thị Bích Ngọc, Bảo vệ công lý trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 19 (419) tháng 10/2020.

(23) Điều 317 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn. Việc quy định chặt chẽ các điều kiện dẫn đến rất ít trường hợp có thể áp dụng xét xử rút gọn. Do đó, việc rút ngắn thời gian xét xử tại tòa án cần nghiên cứu một cơ chế khác. Đó là cơ chế hòa giải, đối thoại tại tòa án để tạo sự đồng thuận, rút ngắn thời gian giải quyết.

(24) GS.TSKH Đào Trí Úc, Sự cần thiết và một số định hướng nghiên cứu, xây dựng Đề án đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, Tạp chí Tòa án số 15/2021.

(25) GS.TSKH Đào Trí Úc, Sự cần thiết và một số định hướng nghiên cứu, xây dựng Đề án đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, Tạp chí Tòa án số 15/2021.

(26) Vũ Ngọc Sinh, Sáng kiến ứng dụng công nghệ thông tin và kinh nghiệm tại Tòa án Hồng Bàng, Hải Phòng, Tạp chí Tòa án, https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/sang-kien-ung-dung-cong-nghe-thong-tin-va-kinh-nghiem-tai-toa-an-quan-hong-bang-hai-phong

PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG HÀ

Vụ Cải cách tư pháp, Ban Nội chính Trung ương

Phân biệt tội ‘Chống người thi hành công vụ’ với một số tội khác

Lê Minh Hoàng