/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Quyền bào chữa của bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và một số kiến nghị

Quyền bào chữa của bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và một số kiến nghị

18/05/2023 07:17 |

(LSVN) - Cùng với tiến trình cải cách tư pháp trong quá trình lập hiến, lập pháp, các quy định địa vị pháp lý của bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng nguyên tắc tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam và pháp luật thế giới. Trong đó, quyền bào chữa của bị cáo là một quyền quan trọng góp phần đảm bảo giải quyết vụ án khách quan, đúng đắn, thể hiện sự tôn trọng quyền con người của người bị đưa ra xét xử. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng vẫn còn bộc lộ một số vướng mắc, hạn chế liên quan đến quyền bào chữa của bị cáo. Bài viết tập trung làm rõ về quyền bào chữa của bị cáo và phân tích một số hạn chế pháp lý và thực thi để đề xuất kiến nghị nhằm đảm bảo và nâng cao hiệu quả quyền bào chữa của bị cáo.

Ảnh minh họa.

1. Nhận thức chung về quyền bào chữa của bị cáo

Quyền bào chữa từ trước đến nay luôn là một đề tài được nghiên cứu nhiều và có đa dạng những ý kiến khác nhau về khái niệm, đối tượng cũng như nội dung, phạm vi của nó. Trên thế giới, các học giả nước ngoài cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hòa các hành vi tố tụng hướng tới bãi bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị can”[1]. Quan điểm này chỉ nhắc tới bị can mà không nhắc tới bị cáo nói riêng và người bị buộc tội nói chung.

Một ý kiến khác cho rằng: “Bào chữa trong tố tụng hình sự không chỉ là tổng hoà các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm mà còn là tổng hoà các mối quan hệ tố tụng nhằm tới mục đích làm cho tình trạng của người bị buộc tội tốt hơn và bảo đảm các quyền và lợi ích của người đó trong vụ án”[2].

Ở Việt Nam, quyền bào chữa cũng được tìm hiểu và nghiên cứu và đưa vào giáo trình Luật Tố tụng hình sự. Điển hình là “Quyền bào chữa là tổng hợp các quyền tố tụng tạo khả năng cho bị can, bị cáo bào chữa về hành vi do mình thực hiện đã bị buộc tội và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác”[3].

Bên cạnh đó còn có nhận định: “Quyền bào chữa là tất cả các quyền mà pháp luật quy định để chống lại sự buộc tội”[4]. Hay hiểu một cách đơn giản theo Từ điển tiếng Việt: “Bào chữa là dùng lời lẽ, chứng cơ để bênh vực một việc”[5].

Xét từ góc độ quyền con người, quyền bào chữa là quyền mà pháp luật cho phép người bị buộc tội sử dụng để bác bỏ, phủ định một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội, cũng có thể làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà họ phải chịu. Có thể nói, quyền bào chữa là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng trong tố tụng hình sự. Việc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự có vai trò vô cùng quan trọng, góp phần bảo đảm quyền con người nói chung và địa vị pháp lý của bị cáo nói riêng. Và đây là một tiêu chí cơ bản trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là nguyên tắc Hiến định, được ghi nhận tại tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam. Điều 67 của Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Trước đó, tại Sắc lệnh ngày 13/9/1945 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký, Điều V quy định về các Tòa án quân sự có ghi: “Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho”.

Hiến pháp 1992 cũng ghi nhận quyền bào chữa tại Điều 132: “Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”. Quy định này đã khẳng định quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo. Tuy nhiên nó chưa đầy đủ khi chưa đề cập đến các chủ thể bị buộc tội khác. Trải qua thực tiễn xã hội, Hiến pháp 2013 đã tiếp thu và điều chỉnh để hoàn thiện hơn về quyền bào chữa của người bị buộc tội. Cụ thể tại khoản 7 Điều 102: “Quyền bào chữa của bị can, bị cái, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được đảm bảo”.

Việc ghi nhận, thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, đồng thời giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, khách quan, góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, nâng cao chất lượng cải cách tư pháp. Bị cáo có thể sử dụng quyền bào chữa dưới hai hình thức tự bào chữa (quyền tự bào chữa) và nhờ người khác bào chữa (quyền lựa chọn người bào chữa). Ngoài ra, bằng việc chỉ định người bào chữa khi bị cáo bị xét xử về một số trường hợp nhất định (Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự) nhưng đã không sử dụng quyền nhờ người khác bào chữa thì quyền được bảo đảm bào chữa được thực thi tuy nhiên bài viết tiếp cận dưới góc độ quyền bào chữa tự thân từ bị cáo nên sẽ tập trung vào hình thức tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.

Thứ nhất, về quyền tự bào chữa. Quyền tự bào chữa được hiểu là một quyền năng tố tụng đặc thù của bị cáo được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho phép bị cáo tự mình sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ tội hoặc bảo vệ những lợi ích hợp pháp của mình. Tự bào chữa là một trong những hình thức thực hiện quyền bào chữa của bị cáo và là nội dung quan trọng của quyền bào chữa trong tố tụng hình sự.

Thứ hai là quyền nhờ người bào chữa. Việc thực hiện quyền nhờ người bào chữa của bị cáo diễn ra khá phổ biến, khi mà người bào chữa là những người có chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu pháp lý nên có thể đưa ra quan điểm, lý lẽ thuyết phục để bảo vệ và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo có thể phải chịu

2. Một số vấn đề đặt ra và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Thứ nhất, Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) quy định về quyền bào chữa của bị cáo theo điểm g khoản 2 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) nhưng lại không quy định về việc thực hiện quyền đó như thế nào, khi bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa thì bị cáo có đầy đủ quyền như người bào chữa hay không như: Bị cáo có quyền thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật như điểm h khoản 1 Điều 73 BLTTHS về quyền của người bào chữa hay chỉ có quyền đưa ra chứng cứ (điểm đ khoản 2 Điều 61 BLTTHS).

Pháp luật chưa ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, gây khó khăn trong việc thực hiện quyền tự bào chữa của bị cáo. Trên thực tế, khi bị cáo không biết hoặc không được biết rõ quyền của mình khi thực hiện tự bào chữa thì có thể bất lợi hơn cho bị cáo.

Vì vậy cần có văn bản hướng dẫn áp dụng khi bị cáo tự bào chữa để địa vị pháp lý của bị cáo được đảm bảo hơn, từ đó quá trình tố tụng cũng trở nên khách quan, chính xác hơn. 

Thứ hai, trong trường hợp bị cáo nhờ người bào chữa thì các quy định về thời điểm người bào chữa được tham gia cũng như địa vị pháp lý và các quy định khác về người bào chữa đã được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, việc thực thi vẫn còn một số vấn đề bất cập sau:

Một là, hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa của người bào chữa. Theo khoản 3 Điều 81 BLTTHS năm 2015, trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành thu thập.

So với BLTTHS 2003 thì đây là một trong những quy định tiến bộ. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc quy định như vậy thì quá trình thu thập chứng cứ không được đảm bảo, vì nó phụ thuộc vào các cơ quan tiến hành tố tụng. Người bào chữa sẽ bị bị động trong việc tiếp nhận và phân tích chứng cứ, chưa kể đến trường hợp đó là chứng cứ bất lợi cho phía bị cáo.

Hai là, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam chưa có chế tài về hành vi cản trở việc thu thập chứng cứ của người bào chữa. Chứng cứ có giá trị vô cùng quan trọng trong bất trong việc giải quyết vụ án, bị cáo có thể được phán quyết vô tội, nhưng cũng có thể bị oan sai phụ thuộc vào chứng cứ. Rõ ràng đó là hành vi vi phạm pháp luật và cần được điều chỉnh trong luật.

Chính vì vậy, cần bổ sung thêm quy định về mức xử lý đối với hành vi cản trở, cố tình che giấu, không cung cấp chứng cứ hay làm gián đoạn quá trình thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật của người bào chữa nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo.

Thứ ba, để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo tốt nhất thì cần giải quyết các vấn đề sau: một là, chú trọng nâng cao trình độ nhận thức và chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho người bào chữa như kỹ năng hùng biện, khả năng lập luận chặt chẽ, sắc bén và thuyết phục. Một người bào chữa tốt sẽ đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo tốt hơn.

Bên cạnh đó, cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật của những người tiến hành tố tụng. Cần tăng cường công tác kiểm tra và có chính sách xử lý nghiêm minh đối với những người sa sút về đạo đức, lương tâm và trách nhiệm trong các cơ quan bảo vệ pháp luật. Điều này tạo nên lòng tin đối với quần chúng nhân dân, góp phần đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng tuân thủ và chấp hành nghiêm pháp luật tố tụng hình sự nhằm đạt được lợi ích của nhà nước, của xã hội; đồng thời đảm bảo thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong đó có quyền được bào chữa của bị cáo.

Tóm lại, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam với nhiều quy định nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và đã được thực thi hiệu quả trên thực tế đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục kịp thời nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả bảo vệ, bảm đảm quyền này của bị cáo góp phần giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đầy đủ, không bỏ lọt tội phạm, hạn chế oan, sai.

[1] M.X. Xtrôgôvích: “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Xô Viết”, tập 1, NXB Khoa học, M-1968, tr.196.

[2] Ph.N. Phatkulin: “Buộc tội và bào chữa trong vụ án hình sự”, NXB Đại học Tổng hợp Cadan, C-1976, tr.112 (Tiếng Nga).

[3] Võ Khánh Vinh, “Giáo trình Luật Tố tụng hình sự”, NXB Công an nhân dân, HN-2002, tr.71.

[4] Phan Thanh Mai, “Giáo trình Luật tố tụng hình sự”, NXB Tư pháp, HN-2006, tr.49.

[5] Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa (tr.133).

Tiến sĩ VŨ THỊ PHƯỢNG - ĐÀM THỊ MAI LIÊN

Khoa Luật, Trường Đại học Công đoàn

Một số vấn đề về tịch thu hay không tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội

Bùi Thị Thanh Loan